CHÂM CỨU BẤM HUYỆT TRONG ĐIỀU TRỊ XƯƠNG KHỚP
Châm cứu, bấm huyệt là gì ?
Xem thêm: Y học cổ truyền trong điều trị thần kinh tọa
Châm là dùng kim châm vào huyệt, cứu là sức nóng trên huyệt để kích thích tạo sự phản ứng của cơ thể nhằm mục đích chữa bệnh .
Châm cứu là một kích thích gây nên cung phản xạ mới có tác dụng ức chế và phá vỡ cung phản xạ bệnh lý như: làm giảm cơn đau, giải phóng sự co cơ…
có thể tác dụng ngay tức thì sau khi châm nhưng cũng có khi phải lưu kim lâu và điều trị nhắc đi nhắc lại nhiều lần, nhiều liệu trình mới thu được kết quả.
Châm cứu thường được chỉ định hiệu quả trong các trường hợp như: đau do thoát vị đĩa điệm, thoái hóa cột sống, thoái hóa khớp gối, bệnh thần kinh tọa, viêm khớp vai, đau nhức tê bì tay chân, nhức đầu, mất ngủ, liệt VII ngoại biên( méo mặt),tai biến mạch máu não…
Không dùng trong các trường hợp: người thiếu máu , mắc bệnh tim, phụ nữ có thai hoặc đang hành kinh, cơ thể ở trạng thái không bình thường ( vừa lao động mệt nhọc, đói ), người đang đau bụng cơn cần theo dõi ngoại khoa, không sử dụng trong cấp cứu.
Xem thêm: Điều trị thoái hóa khớp gối bằng phương pháp cấy chỉ
Bấm huyệt là làm các thủ thuật ấn (dùng ngón tay ấn vào vùng huyệt cần tác động), day (dùng ô mô út hoặc gốc bàn tay ấn xuống vùng da của bệnh nhân di động theo đường tròn),
lăn (dùng mu bàn tay hoặc mặt bên của ô mô út vận động nhẹ nhàng khớp cổ tay với một sức ép nhất định lăn trên vùng định xoa bóp),
véo (dùng đầu ngón tay cái và ngón tay trỏ, kéo da người bệnh lên, cần làm liên tiếp cho da người bệnh luôn bị cuộn ở giữa các ngón tay của thầy thuốc) ở các khớp và các cơ quanh khớp vùng tổn thương.
Châm cứu trong ứng dụng chữa bệnh xương khớp
Đau nhức xương khớp là bệnh phổ biến xảy ra khi thời tiết giá rét. Bệnh nhân nhẹ thường có cảm giác đau nhức hoặc mỏi ở vùng bị bệnh, đôi khi có cảm giác như có kiến bò ở các khớp đầu gối, tay chân gây cảm giác khó chịu cho bệnh nhân.
Nặng hơn có thể gây biến dạng vùng xương khớp bị bệnh.
Nguyên nhân gây bệnh xương khớp: Đông y cho rằng, do sức đề kháng của cơ thể không đầy đủ nên các yếu tố gây bệnh cùng phối hợp xâm phạm đến kinh lạc ở cơ, khớp.
Hậu quả là sự vận hành của khí huyết bị tắc nghẽn, gây ra sưng đau, hoặc tê, mỏi, nặng ở một khu vực khớp xương hoặc toàn thân.
Một số người chính khí hư suy vì mắc bệnh lâu ngày hoặc do cao tuổi, các chức năng hoạt động cơ thể suy yếu nên khí huyết giảm sút, không nuôi dưỡng được cân mạch, gây thoái hóa khớp xương và đau.
Vì vậy, khi chữa các bệnh về khớp, y học cổ truyền đều hướng tới lưu thông khí huyết ở gân, xương, đưa các yếu tố gây bệnh (phong hàn, thấp, nhiệt) ra ngoài và phòng chống tái phát.
Bệnh đau nhức xương khớp trong đông y được chia làm nhiều thể bệnh. Dựa theo các triệu chứng biểu hiện di chuyển hay tại chỗ, đau nhiều khớp hay 1 khớp, sợ gió, sợ lạnh, chân tay lạnh, vận động đi lại khó khăn.
Tính chất đau ( đau âm ỉ cắn nhức hay dữ dội)…để có những pháp đồ điều trị cụ thể.
Hầu hết bệnh nhân đau nhức xương khớp cảm thấy rất khó chịu, bứt rứt, tê mỏi …Xoa bóp bấm huyệt kết hợp với châm cứu là những kích thích vật lý tác động tại chỗ vào da, cơ, thần kinh, mạch máu có tác dụng tại chỗ là giảm đau, giãn cơ và lưu thông khí huyết.
Điều trị bằng châm cứu:
Phương pháp điện châm được áp dụng tùy theo từng thể bệnh:
Thể phong thấp nhiệt tý (tương ứng với viêm khớp dạng thấp có đợt tiến triển cấp)
Điện châm các huyệt: phong trì, khúc trì, phong môn, hợp cốc, huyết hải, túc tam lý, a thị huyệt.
Dùng phương pháp điện châm với xung điện cường độ thích hợp (tuỳ theo ngưỡng chịu đựng của từng bệnh nhân), tần số nhanh, thời gian 20-30 phút một lần châm, hiệu quả giảm đau rất nhanh.
Thể thấp nhiệt thương âm (tương ứng với viêm khớp dạng thấp giai đoạn mạn tính, tiến triển chậm)
Xem thêm: Phương pháp kéo dãn cột sống
Điện châm huyệt: A thị huyệt, phong trì, khúc trì, phong môn, hợp cốc, huyết hải, túc tam lý, tam âm giao, thái khê.
Dùng phương pháp điện châm với xung điện cường độ thích hợp (tùy theo ngưỡng chịu đựng của từng bệnh nhân), tần số chậm, thời gian 20-30 phút một lần châm.
Thể đàm ứ ở kinh lạc (tương ứng viêm khớp dạng thấp kéo dài có biến dạng khớp, teo cơ, dính khớp)
Điện châm huyệt: A thị huyệt, phong môn, đại chùy, khúc trì, hợp cốc, huyết hải, âm lăng tuyền, huyền chung, phong long, túc tam lý.
Có thể lựa chọn phương pháp thể châm (châm thường không kích thích xung điện) hoặc phương pháp điện châm với xung điện cường độ thích hợp (tùy theo ngưỡng chịu đựng của từng bệnh nhân), tần số chậm, thời gian 20-30 phút một lần châm.
Trong điều trị, các thầy thuốc còn chú ý đến bệnh mới mắc hay đã lâu ngày, hoặc tái phát nhiều lần. Nếu mới mắc thì dùng các phương pháp loại bỏ yếu tố gây bệnh là chính. Nếu bệnh lâu ngày hoặc tái phát nhiều lần thì phải vừa nâng đỡ tổng trạng, bổ khí huyết, vừa loại bỏ yếu tố gây bệnh.